Không còn là bệnh lý

ngày 14/09/2020

Khi thảo luận về Long, mọi người đều nghĩ rằng Long mắc bệnh tâm thần. Không chỉ học viên, mà ngay cả những đồng nghiệp của tôi, các bác sĩ tâm thần và các nhà tâm lý lâm sàng được đào tạo bài bản ở Mỹ và Pháp cũng nghĩ vậy. Bởi vì, ăn đất là một hành vi rất kì lạ.

Có một thông tin quan trọng cố tình được giấu đi. Long quê ở huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc và mới chuyển lên Hà Nội học. Quê Long có tục ăn đất lâu đời. Mọi người ăn đất ngói, một loại đất đặc biệt ở địa phương, và thường hun khói bằng lá sim. Khi tôi chia sẻ thêm, mọi người đều thay đổi và cho rằng Long bình thường.

Tôi chủ ý gợi ra cảm giác kì lạ cho mọi người về Long. Rất thông thường, khi chúng ta thấy có biểu hiện kì lạ, khác thường, chúng ta sẽ coi việc nó là bệnh lý tâm thần mà không nghĩ rộng ra về các tính chất khác của nó.

Một hiện tượng khác cũng gây cảm giác kì lạ cho chúng ta là hiện tượng đồng tính. Đây là những người có cảm xúc tình dục với người cùng giới tính với mình. Nếu bạn là bố mẹ họ, bạn đưa họ đến bệnh viện khám toàn bộ cơ thể làm đủ các trắc nghiệm sinh hóa nhưng sẽ không tìm ra vấn đề gì. Các bác sĩ lúc đó giới thiệu họ sang khoa tâm thần bởi nếu cơ thể không có vấn đề gì thì nó sẽ là vấn đề của tâm trí. Đó là chuyện xảy ra trước năm 1973.

"Tôi là người đồng tính. Tôi là một bác sĩ tâm thần". Bác sĩ Ẩn danh (người đeo mặt nạ) phát biểu tại cuộc họp lịch sử giữa những thành viên của APA và các người đồng tính năm 1972. Bác sĩ Ẩn danh này là John Fryer, một nhà tâm thần, giảng viên Trường đại học Temple, Mỹ.

Trước năm đó, giới tâm thần học coi đồng tính là một loại bệnh, một sự phát triển tình dục lệch lạc. Nhà tâm thần học, Edmund Bergler viết trong một cuốn sách nổi tiếng ở thập kỉ 50: "Tôi không kì thị với người đồng tính; với tôi họ là những bệnh nhân cần phải được giúp đỡ".

Cũng tồn tại quan điểm khác coi đồng tính là kết quả của việc phát triển tính dục chưa hoàn thiện. Freud, cha đẻ của phân tâm học, cho rằng mọi người sinh ra đều có hai xu hướng tình dục, đồng giới và khác giới. Sự phát triển tính dục tự nhiên khi hoàn thiện sẽ tạo ra xu hướng tình dục dị giới. Đồng tính là do quá trình phát triển tính dục phát triển không hoàn thiện được do bị ảnh hưởng bởi những trải nghiệm tâm lý tiêu cực.

Thế nên, không ngạc nhiên rằng khi hội Tâm thần học của Mỹ coi đồng tính là rối loạn nhân cách xã hội. Điều này được thể hiện chính thức trong cuốn Sổ tay Thống kê và Chẩn đoán các rối loạn tâm thần (DSM), lần thứ nhất (năm 1952). Sổ tay này là sách hướng dẫn các bác sĩ tâm thần chẩn đoán bệnh. Trong phiên bản thứ hai, (năm 1968), DSM tiếp tục liệt kê đồng tính là một loại lệch lạc tình dục.

Thời điểm đó, nhiều nhà tâm thần học chỉ biết đến những người đồng giới họ gặp trong bệnh viện hay phòng khám tâm thần của họ. Những người đồng tính đó có những vấn đề tâm thần, cảm thấy tệ với xu hướng tình dục của mình và muốn thay đổi nó. Vào phòng khám, đương nhiên bạn sẽ toàn gặp bệnh nhân. Nhưng không phải người đồng tính nào cũng có các khó khăn tâm lý.

Vào cuối thập kỉ 1950, nhà tâm lý học Evelyn Hooker xuất bản một nghiên cứu so sánh các khó khăn tâm lý ở hai nhóm người, 30 người đồng giới nhưng không ở trong bệnh viện và 30 dị tính ngẫu nhiên. Kết quả cho thấy không có khác biệt gì giữa hai nhóm này. Ngoài kia, bên ngoài phòng khám của các bác sĩ tâm thần có những người đồng tính vui vẻ và hạnh phúc với bản thân và với cuộc sống.

Vào thập niên 1970, phong trào đòi quyền của người đồng tính hoạt động rất mạnh và táo bạo. Năm 1972, hiệp hội Trị liệu Hành vi tổ chức một hội thảo về trị liệu cho người đồng tính. Khi cuộc họp bắt đầu được 10 phút thì các nhà hoạt động đứng lên hô to: "Buổi này phải dừng lại. Chúng tôi không thể chấp nhận được nữa. Các ông bệnh lý hóa chúng tôi". Sau nhiều lần ổn định lại trật tự không được, cuộc họp buộc phải dừng lại.

Gs. Robert Spitzer, cha đẻ của nền tâm bệnh học hiện đại vì những đóng góp trong việc định nghĩa và phân loại bệnh tâm thần.

Cuộc họp đó có mặt của giáo sự tâm thần học, Trường đại học Columbia, Robert Spitzer, một thành viên trẻ tuổi của APA tham gia soạn thảo sách DSM. Tại thời điểm đó, mặc dù suy nghĩ giống những đồng nghiệp của mình, coi đồng tính là một bệnh rất nặng, nhưng Gs. Robert vẫn cảm thấy có điều gì không ổn khi chứng kiến chuyện xảy ra.

Điều đó thúc đẩy ông liên hệ với một người biểu tình hôm đó để tìm hiểu về cuộc sống của người đồng tính. Xúc động vì những gì khám phá được, ông tổ chức một cuộc họp giữa người đồng tính và một số thành viên chủ chốt của APA để lắng nghe thêm về trải nghiệm của họ.

Sau buổi đó, nhiều thành viên APA cảm thấy có trách nghiệm cải thiện tình hình cho người đồng tính. Nhưng làm được điều gì là chuyện khiến GS. Robert đau đầu. Hiểu hơn về họ, ông nhận thấy không có cơ sở để coi đồng tính là bệnh tâm thần. Nhưng cụ thể thì đồng tính khác biệt gì so với các bệnh tâm thần?

Thời điểm đó, chưa có định nghĩa về thế nào là một bệnh tâm thần. Xem lại các bệnh, GS. Robert nhận thấy chúng có điểm chung: gây đau khổ cho người bệnh và ảnh hưởng đến chức năng chung trong cuộc sống của họ. Trầm cảm chẳng hạn, (là một bệnh đặc trưng bởi tâm trạng buồn bã và chán nản không muốn làm gì). Ai cũng trải qua nỗi buồn chán. Nhưng chỉ khi người ta thấy nỗi buồn gây cho họ rất nhiều sự khó chịu hoặc lo lắng đó ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống gia đình hay các mối quan hệ khác thì nó mới được coi là bệnh.

Những người đồng tính hiển nhiên đang phải trải qua rất nhiều đau khổ, khó khăn trong cuộc sống. Tuy nhiên đó là do cách đối xử của xã hội với họ chứ bản thân việc đồng tính không tạo ra đau khổ gì hoặc cản trở gì tới hoạt động của họ.

Nhưng, đồng tính không quan hệ tình dục với người khác giới, vậy sinh con làm sao?

Đây quả là một điểm rất thú vị, bởi lẽ không sinh con cái sẽ không thể duy trì giống nòi. Tuy nhiên, đây không phải là chức năng căn bản cần phải có. Bởi lẽ, nếu người này không làm thì người khác sẽ làm. Có con hay không có con, không làm cho một người trở nên kém con người hơn, người đó vẫn hoàn toàn có thể là một người độc lập tự chủ, trưởng thành.

Trong xã hội có rất nhiều người không có con như: các nhà sư, các thầy tu hoặc nhiều người đơn giản là không thích có con. Họ chọn không muốn có con. Không ai coi họ là bị rối loạn tâm thần. Người đồng tính không hề bị ảnh hưởng tới khả năng có con, họ chỉ lựa chọn không có con theo cách của người dị tính. Bởi vì đơn giản nếu phải lập gia đình sinh con, hoặc thậm chí có con mà không yêu người bạn đời của mình, họ sẽ không hạnh phúc, con họ cũng không hạnh phúc.

Với những lập luận thuyết phục trên, Gs. Robert đã kiến cho nhiều thành viên chủ chốt của hội Tâm thần Mỹ nhận thấy đồng tính không phải là bệnh tâm thần. Tuy nhiên, tại thời điểm đó, trị liệu để thay đổi người đồng tính trở lại dị tính, vẫn đang rất phổ biến. Nếu tuyên bố đồng tính không phải là bệnh, các bác sĩ đang thực hiện trị liệu này sẽ phản đối.

Để được đa số chấp nhận, GS. Robert đã đề xuất thay thế đồng tính bằng chứng "bối rối định hướng tình dục". Nhãn bệnh tâm thần này dành cho những người đồng tính đặc biệt, những người không cảm thấy không thoải mái về xu hướng đồng giới của mình và muốn thay đổi thành người dị tính. Phương án này đã được APA bỏ phiếu chấp nhận vào cuộc họp thường niên năm 1973. Kết quả là đồng tính lần đầu tiên đã không còn xuất hiện trong DSM.

Nhưng đó mới chỉ là bước khởi đầu, đồng tính vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi sự liên quan đến bệnh tâm thần. Dưới sức ép của những nhà tâm thần học theo hướng phân tâm, APA buộc vẫn phải có những nhãn bệnh tâm thần liên quan đến đồng tính như "bối rối định hướng tình dục" hoặc "Đồng giới có bản thể không đồng nhất" ở DSM 3. Những nhãn đó tồn tại nhằm xoa dịu những bác sĩ đang muốn tiến hành trị liệu cho người đồng tính.

Không chấp nhận sự thỏa hiệp đó, các nhà tâm thần học tiến bộ tiếp tục đặt câu hỏi: liệu những buồn phiền về bản thân mình có phải là dấu hiệu của bệnh tâm thần không? Liệu chúng ta có coi những người lùn bẩm sinh, lớn lên họ rất phiền lòng về chiều cao của mình là những người bị tâm thần không? Kết quả là, trong phiên bản chỉnh sửa DSM 3 năm 1987, đồng tính đã không hoàn toàn ra khỏi danh sách các bệnh tâm thần, không còn bất cứ một nhãn bệnh nào liên quan đến đồng tính.

Đã hơn 30 năm kể từ khi hiện tượng đồng tính được các nhà tâm thần học nhìn nhận với đúng bản chất của nó, một hiện tượng tự nhiên của con người. Sự thay đổi quan điểm đó không phải là một sự nhân từ, thương cảm dành cho những người yếu thế, kì dị. Đó là một điều tất yếu đạt được; trước hết, là nỗ lực cất lên tiếng nói của chính những người đồng tính; sau đó, là nỗ lực của những nhà tâm thần học sẵn sàng bước ra khỏi chỗ yên ấm của mình để học hỏi từ thực tế cuộc sống. Giờ đây, những người đồng tính hiện diện và đóng góp trong mọi lĩnh vực của cuộc sống càng cho thấy đó là điều đúng đắn. Tôn trọng xu hướng tính dục của một người là việc đúng phải làm. 


Nguồn: Báo ANTG