5 bệnh ung thư gây tử vong cao nhất: Phát hiện sớm là chìa khóa để tự cứu mình

ngày 10/11/2021

Ung thư gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, và khả năng sống sót sau ung thư phụ thuộc vào các yếu tố như loại ung thư, giai đoạn chẩn đoán và cách điều trị.

Nguyên nhân dẫn đến ung thư là do sự kết hợp của nhiều yếu tố, có thể bao gồm: Hút thuốc, đột biến gen, hormone, tình trạng miễn dịch, chế độ ăn uống và bệnh truyền nhiễm.

Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, ước tính có khoảng 1,9 triệu ca ung thư mắc mới và 608.570 ca tử vong do ung thư trong năm 2021. Dưới đây là 5 căn bệnh ung thư gây tử vong nhiều nhất ở Mỹ.

1. Ung thư phổi

Chương trình Giám sát, Dịch tễ học và Kết quả cuối cùng của Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ: Dự báo số ca ung thư phổi và phế quản trong năm 2021 là 235.760 ca và dự báo tử vong do ung thư phổi và phế quản năm 2021 là 131.880 ca.

Nhiều người bị ung thư phổi thường biểu hiện bệnh ở giai đoạn nặng và cuối cùng sẽ dẫn đến tử vong. Hút thuốc - một yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được - là nguyên nhân phổ biến nhất của ung thư phổi.

Dựa trên xét nghiệm kính hiển vi, ung thư phổi được chia thành 2 loại: Ung thư phổi tế bào nhỏ và ung thư phổi không tế bào nhỏ.

Tùy thuộc vào loại và giai đoạn của ung thư phổi, việc điều trị có thể bằng phẫu thuật, hóa trị hoặc xạ trị.

2. Ung thư đại trực tràng

Ban đầu, ung thư đại trực tràng gây ra ít hoặc không có triệu chứng. Nếu phát hiện sớm, ung thư đại trực tràng có thể điều trị được và có tỷ lệ sống sót sau 5 năm.

Ví dụ, tỷ lệ sống sót của những người bị ung thư đại trực tràng giai đoạn đầu là khoảng 90%. Tỷ lệ sống sót sau 5 năm đối với ung thư đại trực tràng giai đoạn cuối thì thấp hơn nhiều.

Chương trình Giám sát, Dịch tễ học và Kết quả cuối cùng của Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ: Dự báo số ca mắc ung thư đại trực tràng trong năm 2021 là 149.500 ca và dự báo số người chết do ung thư ruột kết gây ra trong năm 2021 là 52.980 ca.

Tầm soát bằng nội soi đại tràng có thể giúp phát hiện sớm và điều trị ung thư ruột kết.

Các khối u nhỏ, giai đoạn đầu có thể được loại bỏ hoàn toàn trong quá trình nội soi. Đối với các khối u lớn hơn, phẫu thuật là phương pháp điều trị thông thường, đôi khi cùng với hóa trị, xạ trị, liệu pháp nhắm trúng đích hoặc liệu pháp miễn dịch để thu nhỏ khối u và điều trị di căn.

3. Ung thư vú

Nguyên nhân dẫn đến ung thư vú là do sự phát triển ác tính của các tế bào lót trong các tiểu thùy hoặc ống dẫn của vú.

Chương trình Giám sát, Dịch tễ học và Kết quả cuối cùng của Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ: Dự báo số ca mắc ung thư vú ở phụ nữ năm 2021 là 281.550 ca và dự báo số ca tử vong do ung thư vú ở phụ nữ năm 2021 là 43.600 ca.

Theo thống kê về ung thư vú của Hoa Kỳ, có khoảng 1% tất cả các trường hợp ung thư vú ảnh hưởng đến nam giới. Thông thường, các tế bào cần thời gian để trở thành ác tính hoàn toàn, xâm lấn và di căn.

Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ:

Dự báo số ca mắc ung thư vú ở nam giới vào năm 2021: 2.650 ca

Dự báo số ca tử vong do ung thư vú ở nam giới vào năm 2021: 530 ca

Việc điều trị ung thư vú có thể khá phức tạp và dựa trên nhiều yếu tố. Nói chung, ung thư vú có thể được điều trị bằng cách cắt bỏ vú hoặc cắt bỏ khối u.

Ngoài liệu pháp phẫu thuật tại chỗ, liệu pháp bổ trợ hoặc toàn thân cũng được áp dụng để điều trị cho những người bị ung thư vú. Liệu pháp bổ trợ như vậy có thể bao gồm hóa trị liệu hoặc liệu pháp hormone.

4. Ung thư tuyến tụy

Ung thư tuyến tụy là một loại ung thư có tính xâm nhập mạnh. Nó thường dẫn đến tử vong nhanh sau khi gây ra các triệu chứng đau đớn bao gồm đau dạ dày, tắc nghẽn mật, chảy máu, cổ trướng...

Theo Chương trình Giám sát, Dịch tễ học và Kết quả cuối cùng của Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ: Các trường hợp ung thư tuyến tụy dự kiến vào năm 2021 là 60.430 ca và dự báo số người chết do ung thư tuyến tụy vào năm 2021 là 48.220 ca.

Mặc dù hiện tại không có lựa chọn sàng lọc đáng tin cậy nào đối với ung thư tuyến tụy, nhưng những người có nguy cơ cao do di truyền được khuyên nên siêu âm nội soi định kỳ và chụp cộng hưởng từ (MRI) hoặc chụp cắt lớp vi tính (CT).

Phẫu thuật là phương pháp điều trị chính cho những người bị ung thư tuyến tụy, sau đó là hóa trị. Vai trò của bức xạ còn nhiều tranh cãi, mặc dù nó có thể được sử dụng để thu nhỏ khối u ở những người bị ung thư tuyến tụy không thể phẫu thuật được.

Phẫu thuật với mục đích chữa bệnh chỉ được thực hiện trong khoảng 1/5 trường hợp.

5. Ung thư tuyến tiền liệt

Tuyến tiền liệt là một tuyến được tìm thấy trong hệ thống sinh dục nam. Nó nằm ở giữa khung xương chậu dưới, nép mình giữa trực tràng và bàng quang. Tuyến tiền liệt tạo ra tinh dịch nuôi dưỡng tinh trùng.

Ung thư tuyến tiền liệt phát sinh từ các tế bào tuyến và là một loại ung thư biểu mô tuyến. Bệnh này thường ảnh hưởng đến đàn ông lớn tuổi, phổ biến hơn ở người Mỹ gốc Phi và những người có tiền sử gia đình mắc bệnh.

Chương trình Giám sát, Dịch tễ học và Kết quả cuối cùng của Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ: Dự báo số ca mắc ung thư tuyến tiền liệt vào năm 2021 là 248.530 ca và dự báo tử vong do ung thư tuyến tiền liệt vào năm 2021 là 34.130 ca.

Hầu hết các bệnh ung thư tuyến tiền liệt phát triển chậm, và những người bị ung thư tuyến tiền liệt không có triệu chứng đôi khi được theo dõi mà không cần điều trị.

Trên thực tế, nhiều người bị ung thư tuyến tiền liệt tử vong vì những nguyên nhân không liên quan, chẳng hạn như đau tim hoặc đột quỵ.

Mặc dù những người đàn ông lớn tuổi không có triệu chứng đã từng được tầm soát ung thư tuyến tiền liệt thường xuyên bằng phương pháp khám trực tràng kỹ thuật số và xét nghiệm kháng nguyên đặc hiệu cho tuyến tiền liệt, trong những năm gần đây, nhiều chuyên gia đã tranh luận về giá trị của việc tầm soát tuyến tiền liệt.

Điều trị ung thư tuyến tiền liệt bao gồm cắt bỏ tuyến tiền liệt (phẫu thuật cắt bỏ), xạ trị tia bên ngoài hoặc liệu pháp brachytherapy (phóng xạ). Brachytherapy là một thủ thuật trong đó i-ốt phóng xạ được cấy vào tuyến tiền liệt.

Nguồn: https://vtc.vn/5-benh-ung-thu-gay-tu-vong-cao-nhat-phat-hien-som-la-chia-khoa-de-tu-cuu-minh-ar645577.html